Mời bạn xem thêm bài Pháp: Duyên khởi trùng trùng – sinh tử quay cuồng
Link: https://www.youtube.com/watch?v=icUgs6XabEM
BÀI 1: VẠN PHÁP DO DUYÊN SANH
Vạn Pháp do duyên sanh và cái gì tạo ra duyên?
Tin Phật mà không hiểu Phật là phỉ báng Phật và Phật đã có dạy: tin Ta mà không hiểu Ta là phỉ báng Ta.
Nên chúng ta tu là phải biết rõ, tu là lấy Trí Tuệ làm gốc, đừng có mù mờ. Các pháp tu: Thiền, Tịnh Độ, Mật Tông, hay gõ chuông, gõ mõ, …tất cả chỉ là phương tiện;
Tu có giỏi như Đề Đà Đạt Đa đạt tới Bát Thiền, năm thần thông vẫn rớt vào địa ngục nếu không hiểu được tham, sân, si. Vì tham, sân, si sanh khởi mà không hiểu được cho nên đạt được tới Bát Định, phi phi tưởng xứ, năm thần thông như Đề Đà Bạt Đa vẫn rớt vào địa ngục.
Vậy chúng ta Tu Phật, chúng ta đâu có muốn rớt vào địa ngục? Nên chúng ta phải hiểu rất rõ Phật dạy cái gì?
Chúng ta phải hiểu cái gì tạo ra duyên?
Chúng ta nói như két, nói như chim, nói như cái máy thâu băng: Vạn pháp do duyên sanh duyên diệt, vạn pháp diệt. Nhưng tham, sân, si đầy rẫy. Thế thì tham, sân, si nó ở đâu? Tại sao sanh tử luân hồi vô lượng kiếp? Vì Tu mà không hiểu thì tiếp tục tái sanh và tái sanh nữa cho tới khi nào hiểu thì thôi.
Câu hỏi của chúng ta ở đây là Cái gì tạo ra duyên?
Nếu nói rằng Vạn Pháp do duyên sanh thì chúng ta sẽ hỏi tiếp nữa Cái gì tạo ra duyên? Phải chặn ngay gốc rễ. Và Sư sẽ đối chiếu một số Kinh điển: kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Cú, kinh Trạm Xe, kinh Bẹ Chuối, kinh Tứ Niệm Xứ, kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Đây chỉ là sườn bài để bắt đầu chúng ta đi vào khóa tu, chúng ta sẽ phân tích từng chi tiết “Cái gì tạo ra duyên?”. Vì Duyên sanh thì Pháp sanh và Duyên diệt thì Pháp diệt. Vậy thì chúng ta phải đi sâu hơn nữa. Pháp nhận rõ là sự hiện hữu, chúng ta đều thấy thí dụ như cái nhà, con chó, con mèo… kể cả cái Tâm chúng ta di động, tham muốn cũng là một Pháp. Nam, nữ, già, trẻ, lớn, bé, nhà cửa, cây cối đều là Pháp hết. Nhưng trong cái Pháp có cái gì ở trong này?
Thật sự ra nó chỉ có vật thể và năng lượng thôi, chứ nó không có gì hết. Và nói chung hơn nữa thì vật thể cũng chính là năng lượng. Tại vì vật thể được cấu tạo bằng năng lượng. Toàn thể vũ trụ tất cả cũng chỉ là năng lượng. Nhưng mà do con mắt chúng ta nhìn khác nên chúng ta thấy có đàn ông, đàn bà, nhà cửa, máy bay, …
Như trong bài Kinh Lokasutta Đức Thế Tôn đã nói rất rõ: “Tất cả chỉ là năng lượng, năng lượng di động”. Vì mắt thâu nhận ánh sáng, chịu sự rung động và có cái Thức sẵn cho nên khởi lên phân biệt ra vật thể, bản chất của nó chỉ là năng lượng, mà trong bài kinh Đức Thế Tôn không dùng năng lượng mà dùng chữ Lửa, tất cả chỉ là Lửa và Lửa di động. Cho nên các Pháp chẳng qua chỉ là Năng Lượng. Thế thì chúng ta nên thận trọng vì có cái chúng ta thấy được và có cái chúng ta không thấy được.
Thí dụ như sóng của máy điện thoại di động cầm tay, nó cũng là một Pháp nhưng ta không thấy. Ta không thấy không có nghĩa là không có nó. Cõi âm, cõi dương cũng vậy, ta không thấy không phải là không có. Có, nhưng mà ta không thấy. Vì con mắt của ta chỉ nhận được gamma ánh sáng từ 50 cho tới 180 thôi. Ngoài tần số đó chúng ta không nhận được, sóng ngắn quá hay sóng dài quá chúng ta cũng không nhận được.
Từ vật thể biến sang năng lượng thì Albert Einstein đã đưa ra công thức E=mc2 (E là năng lượng, m là khối lượng và c là tốc độ ánh sáng trong môi trường chân không) nếu vật thể chuyển động với vận tốc của ánh sáng thì lập tức vật thể biến thành năng lượng, đó là trạng thái động. Còn trạng thái tĩnh thì có thêm gamma vào công thức.
Chúng ta không đi sâu vào khoa học. Chúng ta chỉ biết như vậy để tu thôi. Vì khoa học là học cả đời vì thấy được cái này, cái kia, vi sinh vật, rồi thấy vũ trụ. Đức Thể Tôn nói giống như người đi qua sông, dùng cả đời người học phép vượt sông. Trong khi, Như Lai chỉ có tốn hai mươi xu tiền đò. Chúng ta không làm những việc đó, chúng ta giải quyết việc sanh tử.
Nói tới Pháp tất là nói tới sự hiện hữu, sống cũng là sự hiện hữu, năng lượng cũng sự hiện hữu, con người cũng sự hiện hữu, nhà cũng sự hiện hữu, núi cũng sự hiện hữu. Thế thì nói với Pháp, chúng ta tiếp tục quay trở lại câu Đức Thế Tôn dạy “Vạn Pháp do Duyên sanh, Duyên diệt vạn pháp diệt”. Các Pháp diệt thì cái Duyên đó là Duyên gì?
Và chúng ta thấy rất rõ ràng là có Duyên cũ và Duyên mới. Duyên cũ là cái Thức. Cái Thức nó có tiềm tàng trong não chúng ta. Duyên mới là những cái chúng ta nhận vào.
Và có Duyên là có Pháp. Ví dụ: chúng ta có một cục đá trắng to thật to. Nếu để bình thường thì nó là vật thể. Nó không có ý nghĩa gì hết. Nhưng nếu chúng ta khởi ý, chúng ta nói cái Duyên có rồi, có cục đá rồi mà bây giờ muốn khắc tượng Phật thì mình dùng đục, đẽo làm thành ra tượng Phật. Tượng Phật là một Pháp. Chúng ta phải khởi cái Ý. Nhưng mà cái Ý từ đâu? Nó từ cái Ý cũ đã nhìn thấy nhiều tượng Phật, đã đi chùa rồi, hình dung ra Đức Phật là: tai thì dài, mắt thì từ bi. Cho nên mới là có Duyên mới, Duyên cũ. Cái cũ nó tác động cái mới, cái mới nó tác động cái cũ. Cho nên nhiều khi khắc bức tượng xong, chúng ta không vừa ý. Chúng ta đục, đẽo trở lại, sửa tới sứa lui cho tới khi nào vừa ý.
Thế thì Pháp này luôn luôn vận hành do đâu? Do chúng ta. Chẳng có phải ở trên Trời rung chuyển hay là sanh tử ở đâu hết. Sanh tử này là một Pháp. Thì Pháp này cũng do ta. Hễ có hiện hữu thì có sanh tử là có Pháp. Tới đây quý vị nắm rõ chưa? Duyên cũ tạo ra Duyên mới. Thế thì Duyên cũ là gì? Duyên mới là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nhận biết trong cảnh.
Đứa bé mới sanh ra chưa hề biết gì. Ngày đầu tiên bé nhắm tít mắt lại là bởi vì trong bào thai mẹ, chín tháng mười ngày bé không thấy được ánh sáng. Bây giờ ra ngoài ánh sáng, ánh sáng chói quá bé chịu không nỗi, cho nên bé phải nhắm mắt lại và sau một vài ngày quen từ từ bé mở mắt hí hí và mở to ra. Thế thì khi mở mắt to ra, đầu tiên bé thấy có thể là người mẹ hay người cha hoặc người bảo mẫu. Mà người nào thấy đầu tiên và thấy thường xuyên thì đi vào trong tâm não của bé, bé thích người đó ngay từ ngày đầu tiên vì cho bé ăn. Vì lúc bé đói cho bé ăn là quy luật.
ĂN – Tôi thích lắm, vì người ta cho tôi ăn là tôi nhớ mặt người đó và nhớ mùi hương, mùi da thịt của người đó. Và những cái đó là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đưa vào, tạo nên một Pháp. Thế thì người bảo mẫu hay người mẹ là cái Pháp hiện hữu đưa vào trong Thức của đứa bé, thì thực sự ra cái mà nó thương không phải là người mẹ thực sự, mà cái nó thương là hình ảnh của người mẹ ở trong não nó. Nó nhớ những lần cho ăn, dỗ ngọt, vỗ về, ôm ấp, … những cái đó tạo nên một ấn tượng, tức là một cuốn phim ở trong đầu nó. Và những cuốn phim tạo nên cảm xúc dục lạc, ưa thích cho nên nó thích người đó qua sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Thế thì khi có sự hiện hữu thì lập tức Pháp phát sinh tại vì Duyên. Hiện hữu này đưa lên não thì là ngoại pháp, ở bên ngoài là ngoại pháp, bên trong là nội pháp. Pháp có hai loại: bên ngoài là nó có sanh diệt; nhà cửa, núi non đều sanh diệt, hình dáng khác nhau. Nhưng cái đó không dính mắc đến sự hiện hữa của cá nhân.
Sự hiện hữa của cá nhân tức là Pháp sanh tử, là Nội Pháp. Trong Nội Pháp, tức là trong não chúng ta, trong Tâm chúng ta đều có ba cái Tâm: một cái đối kháng, một cái phân tích và một cái lưu trữ. Khi gặp ánh sáng, âm thanh nó đều có đối kháng -> rồi nó phân tích thương hay ghét, đúng hay sai -> rồi nó lưu trữ lại. Cho nên đúng với người này, sai với người kia. Tại vì nó đối kháng khác, phân tích khác, nó lưu trữ. Người ăn trộm thì nó nói: “của ở trên trời rớt xuống, mấy người kia gian tham tôi cứ lấy tôi xài”. Nhưng giới luật nhà Phật không lấy đồ của người ta. Cho nên phật tử đối kháng.
Khi có hiện tượng xâm nhập của sắc, của thinh, của hương, của vị, xúc, pháp thông qua năm căn thì lập tức nó đối kháng, phản kháng và nó có khả năng phân tích cho nên nó phân tích theo cái mới này, đúng hay sai, mà đúng hay sai theo quan điểm của nó, theo những cái đã có sẵn, rồi lưu trữ, càng lưu trữ nhiều bao nhiêu thì nó càng định hình, gọi là định kiến. Người đi bán chợ cá thấy giết con cá là bình thường, người tu sĩ không muốn giết cá. Toàn là quy định, đặt tên cho cái Pháp đó rồi khởi tâm ưa thích hay ghét. Người tu ở trong chùa ưa thích ăn chay, khi thấy người ta giết cá không đồng ý, cảm thấy khó chịu, thì chính cái sự khó chịu đó là do sự huân tập của các duyên này. Nó đối kháng hằng ngày, phân tích, rồi lưu trữ, cho nên nó tạo nên một cái định kiến: phong tục, tập quán cha mẹ nuôi dưỡng, sống chung với bạn bè, sống chung với môi trường, … -> huân tu.
Tất cả các nội pháp này đều biến mình thành một cá nhân hiện hữu rất đặc biệt không giống ai. Chỉ có một Sư Tâm nhưng trong đầu quý vị mỗi một người nhìn về Sư Tâm đều khác nhau. Tại vì nội pháp của quý vị khác, đối kháng khác, phân tích khác, lưu trữ khác mà Đức Phật nói vô duyên không độ được chính là chỗ này. Tại vì khả năng đối kháng nó không dung chứa. Cũng loại nước đó nhưng có người uống được, có người không uống được. Nước đường, nước mật ong, nước cam; có người không thích uống nước cam, có người không thích uống đá, có người thích uống đá.
Trong thiền viện này có hai ông sư: một ông chuyên uống đá và một ông không uống đá, sao cũng được, có cũng được, không có cũng được. Tại sao cũng tu như nhau mà một ông lại thích nước phải có đá hay là không đá và một ông không thể có đá, nếu có đá là không uống. Tại sao vậy? Bây giờ ly nước cam nếu bỏ trong tủ lạnh nó cũng lạnh y như vậy, rồi nếu cục nước đá bỏ vào làm cho nước cam nó lạnh. Khác nhau chỗ nào?
Không khác gì hết. Khác nhau cái ấn tượng này nè, cái định kiến về nước đá. Một ông chắc đã bị đau bụng, tiêu chảy vì uống nước đá cho nên thấy nước đá là sợ, tức là đối kháng. Phân tích do cái duyên cũ, lưu trữ lại. Bây giờ xét lại trong bộ não của mình thấy nước đá là nhớ tiêu chảy, thấy nước đá nhớ tiêu chảy; dính mắc với nhau. Còn một ông tiêu chảy thì tiêu chảy, nước đá hay nước thường chẳng dính díu vào cái chuyện đau khổ. Tiêu chảy không làm cho mình đau khổ. Hai cái đó phân biệt rõ ràng. Tiêu chảy là Thân, đau khổ là Tâm. Mà trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Thế Tôn nói rất rõ: “Người quản lý được Tâm thì mới quản lý được sự sanh tử, mới hiểu được sự sanh tử”, mà Tâm rất khó điều phục.
Ngài ví von trong phẩm Một Pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Thế Tôn nói: “Từ trong vô lượng kiếp cho tới nay, Ta không hề thấy có một Pháp nào có thể xâm chiếm, ngự trị, quản lý, điều khiển cái Tâm người đàn ông bằng cái Sắc của người đàn bà và cũng như thế Ta không thấy có một cái Pháp nào có thể xâm chiếm, ngự trị, kiểm soát Tâm người đàn bà bằng cái Sắc của người đàn ông”. Và cũng như thế áp dụng cho thinh, hương, vị, xúc. Có thể là mùi thôi cũng ảnh hưởng.
Cho nên trong ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi”. Cái mùi mà họ cũng khoái nhau nữa, chính vì cái mùi mà sanh tử luân hồi. Thế thì khi nó đối kháng, phân tích cái bản thể đặc biệt riêng của nó tức là định kiến.
Nói theo thuật ngữ nhà Phật là Ngũ Uẫn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức lưu trữ các thông tin này. Cảm giác, xúc chạm, tưởng rồi Sankhara – hành, rồi thức, nhớ thương ghét buồn vui ghi lưu lại, nó chỉ là vibration – sự rung động và nó được mã hóa giống như là máy computer “0.1.0.1” mà nó làm ra đủ các thứ trên máy computer, nó được mã hóa.
Thế thì khi nó lưu trữ rồi -> nó tạo nên một cái bản thể xuất hiện ở đây, cái hiện hữu này nó làm cho cái hiện hữu càng đặc biệt hơn nữa và vì nó càng đặc biệt cho nên nó dính mắc -> cái của tôi khác cái của người ta. Và vì cái của tôi khác cái của người ta lập tức có cái Tôi.
Mà trong Kinh Bahiya Đức Thế Tôn đã dạy cho ông Bahiya: “Này Hiền giả, nếu ông muốn tu tập giải thoát, Ta nói cho ông: trong cái thấy, trong cái nghe, trong cái ngửi, trong cái nếm, trong cái sự hiểu biết chỉ có thấy, nghe, ngửi, nếm”. Đó là tiến trình từ ngoại pháp nó đưa vào nội pháp -> nội pháp đối kháng -> rồi phân tích -> lưu trữ trong não -> rồi dính mắc thương, ghét mà trong ấy không có ông.
Trong tiến trình này không hề có TA trong này. Vật thể Ta thấy, Ta nghe đưa vào sự hiện hữu. Sự hiện hữu của một cá nhân có ngoại pháp -> thấy các cảnh vật bên ngoài -> lưu trữ đem lại trong mắt -> đối kháng Citta, Mano rồi Vinana lưu trữ lại, ba Tâm này tạo nên ba cái Sắc Pháp, tức là ba cái Ngã. Ba cái Tâm đi với ba Ngã cho nên chúng ta phải hiểu. Khi chúng ta hành thiền chúng ta mới biết được. Còn nếu không, quý vị sẽ rớt vào trường hợp của Đề Đà Bạt Đa, thiền cho giỏi tới Bát thiền, năm thần thông. Bát thiền là phi phi tưởng xứ và năm thần thông cũng rớt vào địa ngục. Năm thần thông là ghê lắm phải không? Đệ tử của Đức Phật mà còn giành quyền đòi làm Phật, cuối cùng rớt xuống địa ngục. Tức là Đức Phật nói: “Tu không phải là tu thiền, không phải tu tịnh, không phải tu mật mà tu tham, sân, si. Vô tham, vô sân, vô si là vô sanh là Thánh. Còn tham, còn si là phàm. Mà nhiều tham, nhiều sân, nhiều si là súc sanh”. Thể thôi, công thức của Phật dạy rất đơn giản. Thế thì trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Thế Tôn nói rất rõ; “Sự dính mắc nội pháp là do ngoại pháp, thông qua cái gì? Thông qua sáu căn”.
Trong Kinh Trung Bộ cũng vậy, rất nhiều đoạn trong Kinh Trung Bộ kể cả Kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Thế Tôn cũng nói rất rõ: “từ nơi sáu căn”. Mở mắt ra thấy Cảnh, tai nghe có khen, có chê. Âm thanh thì là âm thanh, mắc gì dính líu tới cái thương, cái ghét. Người ta chê mình thì mình khời phiền não. Phiền não …. là ở đâu ra? Nó ở trong cái này: đối kháng -> phân tích -> lưu trữ chứ không phải ở cái Pháp, ngoại pháp.
Người ta nói xong, người ta đi rồi. Ba ngày sau mình vẫn phiền, mình vẫn buồn … nó lưu trữ thông tin và nó đặt cái tên là nói như thế này là chưởi, giận, sân, … sân là phiền não. Tất cả là đối kháng, phân tích, lưu trữ. Ba Tâm: Citta, Mano, Vinana. Sau khi ba cái này làm cho con người một nội pháp ở trong đầu cho nên hành xử, suy tư đều theo định kiến. Hễ có định kiến là có Ngã -> có ngã là tiếp tục tái sanh. Bây giờ quý vị có ráng ngồi Thiền tới Bát định thì cũng vẫn tái sanh như Đề Đà Bạt Đa thôi.
Thế thì tại sao? Tại vì dính mắc. Cho nên Ngài mới nói với Bahiya: “trong cái nghe chỉ có cái nghe, trong ấy không có ông”. Tức là những tiến trình sinh hoạt về sự hiện hữu, cái ngã về sự chấp thủ về hiện hữu của cá nhân chỉ là một tiến trình ở trên não và nó được huân tu nhiều ngày, vô lượng kiếp. Thế thì khi dính mắc là mình kẹt chỗ này, là đi tái sanh. Còn ngã là còn tái sanh, còn thương cái thân này là còn tái sanh.
Trong cái thân này nó có nội, có ngoại. Ngoại là cha, me, anh, chị, em, vợ, chồng, thầy trò, chùa chiềng. Nội là thương, nhớ, ghét, vui, tham, sân, si, phiền não. Từ cái ngoại nó sanh qua cái nội, thông qua sáu căn, nó nuôi dưỡng.
Người bán cá ở luôn trong chùa họ sẽ không làm, người ở trong chùa ra chợ cá không bao giờ muốn sát sanh. Chuyện sát sanh con gà, con vịt, con cá mà dính gì đến chuyện sanh tử? Không có dính. Quý vị quán chiếu cho kỹ thấy giết một con gà chẳng qua cái nghiệp của nó tới lúc nó chết. Tại sao con gà khác không đưa đầu cho mình chặt mà đúng con gà đó, lúc đó, giờ đó? cái nghiệp ân oán với mình, nó đưa cổ cho mình chặt.
Rồi bây giờ nói sát sanh không tu được. Sư hỏi quý vi Angulimala giết 999 người, nghe theo Đức Phật buông dao rồi tu cái Pháp gì mà chứng A La Hán ngay trong kiếp đó? Mình phải hiểu rõ tất cả đều là sự dính mắc, chấp thủ. Đức Phật dạy cho các đệ tử cúa Ngài, Đức Phật không dạy một Pháp cho tất cả. Tùy từng người mà Ngài dạy.
Đối với Ngài Xá Lợi Phất, bậc thượng thủ. Khi ông Câu Hi La là cậu của Ngài Xá Lợi Phất tới gặp Đức Phật, (bài kinh này ở trong Kinh Trung Bộ), Ông Câu Hi La hỏi Đức Thế Tôn: “Này Ngài Cồ Đàm, kẻ không thọ các pháp thì ông nghĩ sao?”
Tức là sáu căn này đã đóng rồi, ngũ uẩn bỏ, không Thọ. Không Thọ, không Tưởng, không Hành, không Thức. Không Xúc thì không Thọ. Thế thì Ngài hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Ngài Cồ Đàm, kẻ không Thọ các Pháp thì Ông nghĩ sao?”. Đức Thế Tôn nói: “nhưng mà ông có Thọ cái kiến chấp là mình không Thọ các Pháp hay không?”.
Nghĩ là mình không Thọ tức là mình cũng dính rồi, là có định kiến rồi. Hễ có định kiến là có sự hiện hữu chấp nhận của các pháp, luân chuyển trong sáu căn, sáu trần, sáu thức. Ngủ ngầm rồi dẫn tới sanh tử mà không biết. Thế thì Ông là người tu chân thật, ông biết lỗi liền lập tức quỳ xuống sám hối lạy Đức Phật và bạch Ngài Cồ Đàm: “Nếu kẻ ấy không Thọ luôn cái kiến chấp là không Thọ luôn các Pháp thì Ngài nghĩ sao?”.
Đức Thế Tôn rầy liền: “Thế thì Nhân Ngã đồng hòa chỗ này không còn nữa. Phàm Thánh đồng cư. Là một. Hà cớ gì mà ông lại đây cống cao ngã mạn. Giữa Ta và ông không khác. Nếu quả thật ông nói rằng: “Không Thọ kiến chấp là không Thọ các Pháp thì coi như buông hết rồi. Ta cũng buông và ông cũng buông thì hà cớ gì mà ông cống cao ngã mạn?”. Câu Hi La là người tu cao chân chánh, nghe Đức Phật chỉ bày lập tức quỳ xuống cúi sát đầu đảnh lễ Phật, đầu vừa chạm đất lập tức chứng Tu Đà Hoàn buông cái ngã.
Đức Phật nói rất rõ trong các Pháp nếu muốn chứng Tu Đà Hoàn là phải buông thân kiến, sự hiện hữu của Thân. Mà sự hiện hữu của Thân chỉ có xúc, thọ, tham ái sanh ra ngã. Thế thì khi chúng ta thấy được, chúng ta hiểu được các cảm xúc của chúng ta hằng ngày: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi đều sanh ra cảm xúc và tùy theo sự tu tập mà nó thể hiện mạnh hay nhẹ.
Nếu người mới tu tập mà nghe người ta chửi thì lập tức nhớ lời Sư Minh Tâm dạy “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, thôi tôi nhẫn”. Nhẫn nhưng mà tức, tức là còn ức chế trong tâm. Thế thì khi mình ngồi thiền, cái tức đó nó trồi lên liền. Vì hỗi nãy người ta mới chửi, ngồi thiền mà “tức quá!” Nhưng mà nghe Sư dạy “Buông!” Nhưng buông không được, nó vẫn còn ức chế. Thế thì cảm xúc đó là cái gì? Đó là cảm Thọ.
Nếu như mình có trạch giác chi phân tích: đồ đó là đồ giả, âm thanh bên ngoài nó đi mất tiêu rồi mà mình cứ mang trong đầu hoài -> thì mình không lưu trữ. “Buông!”. Ngay chỗ đó là mình được Khinh An. Mình Khinh An thật hay Khinh An giả? Tại vì buông rồi nó còn nhớ, nó sâu dày bao nhiêu kiếp rồi? Nghe chửi là tức tại vì sao? Là tại vì còn cái Ngã cho nên người ta chửi mới tức. Cho nên Đức Phật mới dạy: ‘Này các Chư Tỳ Khưu các ông hãy đi ăn xin, đi khất thực”.
Đã là đi ăn xin, bưng cái bình bát mà người ta cho đồ ăn mà chửi thì mình đâu có buồn nữa. Tu tập lâu ngày. Ngày nào cũng đi ăn xin, không thủ đắc vật chất. Ba y một bát, ai cho cứ nhận thì cái ngã của mình từ từ nó xẹp, dẹp hết luôn. Mà nó hết rồi thì người ta chửi giống như là trống không. Bởi vậy trong Kinh Bẹ Chuối, Đức Thế Tôn mới nói: “Cứ lột cái bẹ chuối ra (cái thân chuối), muốn tìm sự thật thì lột vỏ ra, lột đến cuối cùng được cái gì? Rỗng! Không có gì ở trong, rỗng tuếch!”.
Tức là khi nào Tâm chúng ta như bẹ chuối vậy đó. Lột nó ra. Tham, sân, si, phiền não lột hết, lột hết rồi bên trong trống không, không có gì. Đức Phật ví cái Tâm ấy là Tâm chơn không. Tâm chơn không bao trùm cả vũ trụ: dơ cũng chứa, sạch cũng chứa, người ác cũng chứa, người thiện cũng chứa mà không khởi lên phân biệt, không có đối kháng, không có phân tích.
Cho nên cái Thức nó trắng bốc, không có gì hết. Mà nếu nó trắng bốc, không có gì hết là nó không thương, không ghét, không muốn, không từ chối, không muốn thêm, không muốn bớt, Mà nếu nó không có tức là vô dụng, vô tham, vô sân, vô si thì nó không còn sanh nữa.
Cho nên hễ còn dính mắc là còn kẹt. Chuyển thể hoán đổi cái tâm tham, sân, si của mình bằng những công thức tụng kinh, sám hối, nhất là sám hối. Người mà biết ghê sợ tội lỗi, người mà biết ghê sợ sanh tử, nhàm chán sanh tử thì mới tu nổi. Còn bây giờ nếu Tu để thành Phật thì rớt hết. Ông Phật nói: “Ta tu không phải để thành Phật, Ta tu để buông hết”. Còn nói có quả vị nào đó để mong đạt tới Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Phật nói: “vứt đi hết”. Đề Đà Bạt Đa đạt: Bát Thiền, phi phi tưởng xứ, năm thần thông mà rớt vào địa ngục, ích lợi gì? Tụng kinh, các ngài tụng hoài rồi bước ra ngoài chùa tham, sân, si còn y nguyên. Tung kinh cái miệng thơm tho, được Phước mà có giải thoát đươc đâu? Tại vì còn chấp, có ngã ta tụng kinh đây.
Ngài Ngộ Đạt Thiền sư lên gặp Tổ Tuệ Năng cúi đầu không sát đất Tổ rầy: “Tại sao nhà ngươi cúi đầu không sát đất? Lạy là để xả cái ngã mạn. Lạy Chư tăng là để xả cái ngã mạn, không phải lạy chư Tăng để được Phước. Cái ngã mạn của mình nó dày lắm! Lạy để xả bớt. Đi khất thực để xả bớt cái ngã mạn. Nay nhà ngươi lạy không sát đất, chừa một khúc?” Ông ta nói: “Bạch Tổ con tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa”, ý nói rằng: Tổ chưa chắc tụng được như con, con phước nhiều hơn. Tại sao con phải lạy?
Ngài Huệ Năng mới rầy: “Lạy để xả cái ngã mạn, để được giải thoát” Còn sự chấp thủ, hơn thua trong đây. Như vậy kinh Pháp Hoa chuyển ông chứ Ông đâu có chuyển kinh Pháp Hoa. Ngay chỗ này, Ngài là người tu chân chánh, Ngài nghe giật mình, quỳ xuống lạy Tổ liền, lạy sát đất, biết mình sai rồi. Người tu phải thành thật với chính mình, biết mình sai phải buông, phải chấp nhận, mới tu nỗi.
Chúng ta sám hối cũng vậy, phải thành thật với chính mình. Phạm hay không tự mình biết, có những giới rất là vi tế, mình ngồi lại thấy đúng rồi con có phạm.
Từ chỗ này, chúng ta mới hoán đổi được. Ghê sợ tội lỗi, sám hối …, dẹp bỏ cái ngã thì mới chuyển thể từ cái chỗ dính mắc, rồi khi chuyển thể thì chúng ta mới thấy khổ đau, mà thấy khổ đau, chúng ta mới thấy Tứ Diệu Đế, khổ tập diệt đạo.
Nói khổ đau, khổ đau, … nói hoài mà ai cũng làm cho người khác đau khổ, làm cho mình đau khổ. Có thật sự có Tâm từ không?
Khổ đau này ở đâu? Tứ Diệu Đế có nói khổ tập diệt đạo nhưng Ngài nói theo công thức thôi. Cái chính cũng vẫn là chấp thủ vào ngũ uẩn (lưu trữ Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Chấp thủ vào Ngũ Uẩn cứng ngắc cho nên đau khổ. Tại sao con tôi nó không đi học bác sỹ? Tại sao con tôi không đi học kỹ sư mà đi ca hát, đi đóng kịch. Tôi muốn cho nó đi học bác sỹ. Rồi ông thầy nói với học trò: “Tại sao con không chịu tụng kinh?” – Con không thích tụng kinh”. Ông nói: “tụng kinh mới giải thoát, con.”
Quan điểm của ông là lưu trữ, chấp thủ chỉ có tụng kinh mới giải thoát mà trong khi đó cậu ta nói: “Con tụng không nỗi, con ngồi tụng là con tụng tầm bậy không à!” Rồi ông lại hỏi: “Tại sao không ngồi Thiền?” – Con ngồi thiền đau quá! Con vọng tưởng, con nhớ tùm lum tùm la. Con không ngồi được. Nhưng ông nói: “Ngồi thiền mới giải thoát”. Toàn là sự chấp thủ. Phật nói: “Chớ dính mắc một điều gì ở trong Kinh Trung Bộ”. Nay Ta nói tụng kinh mới giải thoát, bắt đệ tử tụng muốn chết luôn thì nó đau khổ, đâu có phước, phước đâu chưa thấy mà chỉ thấy đau khổ. Bắt đệ tử ngồi thiền thì đau gối, mà cái pháp đó không phải của nó. Nó sinh ra đau khổ. Tại vì chấp.
Vậy thì hỏi trong thế giới này bao nhiêu người theo đạo Phật? Sáu trăm triệu? Bao nhiêu vị Thiền sư? Cả trăm vị Thiền Sư? Bao nhiêu vị đã chứng A La Hán giải thoát? Đếm trên đầu ngón tay.
Phật là Phật. Các vị Thánh Tăng là các vị Thánh Tăng. Mỗi người đều có ba la mật riêng. Người ta tu theo kiểu đó thì người ta chứng, mà bây giờ mình tu theo người ta, mình có đủ ba la mật không? Đức Phật đem thân cho cọp ăn, tức là xả cái ngã. Còn ta thì ta chấp thủ đủ thứ. Ta chỉ đi học một khóa ở bên Miến, khóa học năm ngày rồi về làm Thiền Sư.
Sư gặp chuyện đó hoài. Có lần Sư gặp ông thiền sư người Tây phương, Sư hỏi thiệt: “học mấy ngày?” – năm ngày. Sư hỏi: “Ông biết cái gì về Phật pháp?”. Nhưng ông có hàng bảy, tám chục Phật tử Việt Nam đi theo đóng tiền học. Tại vì ông là người Tây nói tiếng Anh. “Mầu nhiệm quá!”. Chính bản thân ông còn không biết Thiền là gì? Không biết sanh tử là gì? Và bây giờ ông đi dạy cho người ta. Ông ta chỉ tạo đau khổ cho người khác. “Nghiệp chướng!”
Và tại sao có đau khổ? Thực chất của đau khổ là gì? Thực chất của đau khổ là Thọ. Mà hễ có Thọ mới có Tham Ái. Thọ lạc, thọ khổ. Khổ hay lạc đều giống nhau, hai mặt đồng tiền. Giống như ánh sáng với bóng tối. Mở đèn lên thì chúng ta có ánh sáng, tắt đèn thì chúng ta có bóng tối. Bóng tối nó không từ đâu ra. Và nó không biến mất, nó ở đây, nó hiện hữu hằng ngày.
Khổ đau và hạnh phúc là chúng ta đặt tên. Khổ đau, hạnh phúc giống nhau tại vì bối cảnh để các duyên tạo ra khổ đau và các duyên tạo ra hạnh phúc. Thí dụ: có gia đình vợ chồng hòa hoãn với nhau thì cái đó nói là hạnh phúc, đã chắc đâu? Đi tu ngồi thiền thấy được khinh an thấy tôi được hạnh phúc, đã chắc đâu? Tham ngồi thiền cũng đọa. Các ngài Đại Thiền sư đều nói hết mà.
Tham ngồi Thiền là đọa, tại sao? Thiền để cho biết, để phát triển Trí Tuệ, đừng dính mắc, nay phải chấp cái Pháp này, mai phải chấp cái Pháp kia, Pháp này đúng, Pháp kia sai. Tại sao các Ngài bày ra nhiều phương pháp khác nhau? Ngài Pa-Auk phải đi từ Định mới sang Tuệ. Còn Ngài U-Pandita từ Tuệ đi thẳng luôn, không có Định. Tại sao vậy?
Vì các Ngài biết chúng sanh. Tất cá các Ngài đều cùng một Thầy. Một Thầy mà chia làm nhiều trò. Nhưng các Ngài phân công với nhau, mỗi người dạy một phương pháp tuỳ theo căn cơ của chúng sanh: người dạy quán hơi thở, người dạy quán phồng xẹp ở bụng, để chi vậy? Người nào thích hợp thì người đó đi theo.
Người ta thông minh người ta làm như vậy. Còn mình chấp cứng ngắc, phồng xẹp nơi bụng mới giải thoát. Còn người khác nói Định trước rồi Tuệ mới giải thoát. Mà quên bài học Phật dạy; tới Bát định mà Phật còn bỏ rồi Phật đi vào sáu năm trong hang đá để tìm chân lý và Đề Đà Bạt Đa chứng đến Bát Định, năm thần thông cũng rớt vào địa ngục. Đó là những bài học để cho chúng ta thấy.
Thế thì các Ngài tu kiểu gì? Mình nhìn thôi, chớ bắt chước. Tại vì ba la mật của mình khác, ba la mật của người ta dày quá! Các vị đó là Thượng Thủ bao nhiêu kiếp, các Ngài tu tập Ba la Mật rồi. Chúng ta có Ba la mật như cái bánh tráng, thổi là nó bay. Bắt chước như Phật làm sao được, phải không? (Cười đắc ý là hiểu rồi ha!)
Thế thì khổ đau này do đâu? Khổ đau, hạnh phúc là ánh sáng và bóng tối. Hễ mở đèn lên thì thấy sáng, thấy cảnh vật hết: Nhà cửa, đất đai, hình ảnh thì cảm thấy cái Tâm nó khoan khoái phải không? Mà tắt đèn hết trong đêm thấy tối hù thì cảm thấy cái Tâm nó khó chịu, dẫu là vi tế. Thế thì đó là khổ đau và hạnh phúc chứ là gì nữa? Mà khổ đau, hạnh phúc từ đâu có?
Nó không phải vì ánh sáng, không phải vì bóng tối mà nó vì vô minh. Vô minh không biết, nói nôm na chữ bình dân là “ngu”, mà nói theo thuật ngữ của Tuệ Tâm là “ngủ lâu mất dấu” phải không? Ngu quá cho nên không thấy khổ đau là giả. Chỗ nào nó tối quá thì lấy cái đèn soi vô.
Thí dụ như cái máy nó tối, lấy cái đèn soi vào thì thấy rõ ràng. Lấy Trí Tuệ rọi vô thì mất vô minh. Vô minh nó còn nằm đó, chứ không phải có Trí tuệ là hết vô minh. Nhưng hễ có trí tuệ thì vô minh không sanh khởi. Tại vì các Pháp do duyên sanh thì duyên diệt các Pháp diệt. Hễ ánh sáng trí tuệ rọi vào thì vô minh diệt. Nói theo ngôn ngữ thế gian là diệt để cho dễ hiểu mà nó có diệt đâu.
Vô minh và trí tuệ bản chất nó là một. Mở công tắc, tắt công tắc thôi. Quý vị phải hiểu những khái niệm này để khi quý vị bắt đầu hành trì trong khóa Thiền này Sư giảng hết 37 phẩm trợ đạo, thập nhị nhân duyên và nhất là Thất Bồ Đề Phần. Và Sư báo động cho quý vị biết Kinh sách chép chớ tin vội. Đức Phật dạy như vậy và phải trải nghiệm thực tế và phải thắc mắc, trạch giác chi phân tích. Tại sao Ngài Angulimala giết 999 người mà trong kiếp đó tu thành A La Hán? Mà tại sao trong kiếp đó biết bao nhiêu đệ tử của Đức Phật, đệ tử của Đức Phật là phước vô cùng mà tu rớt làm con rận, con sâu? Trong Kinh Pháp Cú, ông Sư đệ tử của Đức Phật mê áo cà sa chết chưa được mặc, lập tức chết thành con rận bò trong áo. Đức Phật xuống dạy đừng có cắt y để phân chia, con rận chính là ông đầu thai. Mê sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp không hiểu được các sự cảm xúc tạo nên Pháp sự hiện hữu. Cho nên lấy ngoại làm nội thông qua sáu căn và dính mắc.
Bà la môn tới hỏi Đức Thế Tôn: “xin Ngài tóm tắt tất cả giáo lý của Ngài lại một câu để cho con dễ hiểu. Ngài giảng nhiều quá con không hiểu.”. Đức Phật nói: “Này, muốn nghe một câu thôi Ta nói cho nghe “Chớ dính mắc một điều gì.”.
Tức là kể cả Pháp. Thiền thì biết thiền thôi. Đừng có dính mắc. Con cố ngồi để con có trí tuệ hay để con thấy namita. Quý vị không bao giờ giải thoát. Có thấy được một trăm cái namita cũng không giải thoát, vào tới Bát định, phi phi tưởng xứ cũng không giải thoát. Chừng nào vô tham, vô sân, vô si thì mới giải thoát, mà muốn có vô tham, vô sân, vô si thì phải có trí tuệ, không còn ngu nữa. Biết rằng Thân là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp cấu tạo ngủ uẩn. Sự vận hành của Ngủ Uẩn.
Sư sẽ giảng luôn về Ngủ Uẩn, chân tướng của nó để các vị dễ hiểu. Và vì vô minh vì sao? Là do Tham Ái. Tham ái cái gì? Không phải Tham cái Thân đâu. Tham cái cảm giác dục lạc, thỏa thích trong những dục lạc. Có cha thì nhìn thấy cha vui quá! Có mẹ thì nhìn thấy mẹ vui quá! Có chùa thì nhìn thấy chùa vui quá! Có đệ tử thì nhìn thấy đệ tử vui quá! Tất cả đều rớt vào cảm giác dục lạc cho nên bảo lưu sanh tử. Năng lượng này sẽ tiếp tục cho chúng ta ái nhiễm. Thầy trò ái nhiễm nhau kiếp sau tiếp tục làm thầy trò nữa, học nữa.
Ngài Xá lợi Phất đã nhiều kiếp học với Phật Thích ca rồi. Cho nên kiếp đó tiếp tục quay trở lại để làm đệ tử để học nữa cho tới khi Đức Phật hỏi Ngài Xá lợi Phất: “Ông có tin rằng nhờ Ngũ căn, ngũ lưc mà ông giải thoát hay không? Tín, tấn, niệm, định, tuệ’. Ngài Xá lợi Phất bạch với Đức Thế Tôn: “không, con không tin”. Năm cái đó do Đức Phật dạy mà Ngài Xá lợi Phất nói không tin, tức là không tin Phật.
Thế thì Phật mới hỏi: “tại sao ông lại nói ông không tin?” Phật lúc nào cũng hỏi tới luôn. – “Tại vì con đã trải nghiệm, thẩm thấu, hiểu rất rõ: tín, tấn, niệm, định, tuệ và cái đó là của con, không còn là của Phật nữa. Cái của Phật khác cái của con, dẫu là viết giống nhau. Năm cái là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Năm cái này Đức Phật tu và thành tựu, Đức Phật hỏi Ngài Xá Lợi Phất và Ngài trả lởi: “con không tin cái này nữa, tại vì cái này con đã thẩm thấu, nó là của con rồi. Hằng ngày, hằng từng sát na con đều có tín, tấn, niệm, định, tuệ. Nhưng mà năm cái này của con không phải là cái của Phật. Cái của Phật là cái của Phật mặc dù cái tên nó cũng là tín, tấn, niệm, định, tuệ. Tên của nó là vô tham, vô sân, vô si là cái của Phật. Còn cái của con vô tham, vô sân, vô si của con nó khác chứ không phải là giống nhau.
Quý vị phải hiểu rõ ràng, tại sao vậy? Tại vì bảo lưu và lưu trữ. Sự nhận thức của Pháp, Đức Phật tu vô vô lượng kiếp. Ngài Xá Lợi Phất tu có một giới hạn. Cho nên mặc dầu chứng đắc A La Hán, Ngài Xá Lợi Phất vẫn chỉ có khả năng nhận biết được một khoảng kiếp thôi. Có một ông già tới Tăng đoàn xin gia nhập, lúc bấy giờ Đức Phật đi ra ngoài, chỉ có Ngài Xá Lợi Phất thôi. Thế là Ngài ngồi thiền quán chiếu thấy rằng ông già này không có duyên với Phật Pháp. Mà nếu không có duyên với Phật Pháp thì Phật dạy “không có duyên với Phật Pháp không độ được” cho nên Ngài mới từ chối, nói “thôi, ông không có duyên với Phật pháp, ông vào đây không tu được đâu, ông cũng chán, ông xả y rồi ông cũng ra đời, ông cũng lăn xăng, …, ông cũng không tu được đâu”.
Thế thì đuổi ông đi ra và ông tính nhảy xuống sông Hằng tự tử, nhằm lúc Đức Phật đi ngang, Đức Phật nắm lại và hỏi “làm gì mà tự tử?” – Con vào Tăng đoàn của Ngài Cồ Đàm con xin tu mà Ngài Xá Lợi Phất đuổi con, nói con không có duyên với Phật. Mà con thấy kiếp sống mà nếu không tu thì có ích lợi gì. Thôi thì con nhảy xuống sông tự tử”. Thế thì Đức Phật nắm lại và nói: “Ta cho ông vô tăng đoàn, ông vô đi”. Ông kia hỏi “Ngài là ai? Ngài Xá Lợi Phất là trưởng lão đuổi con. Vậy Ngài là ai mà cho con vô?”. Đức Phật trả lời: “Ta là Cồ Đàm đây”. Ông nghe xong liền quỳ xuống lạy.
Về tới Tăng đoàn, Ngài Xá Lợi Phất quỳ thưa: “Bạch Đức Thể Tôn, duyên cớ gì mà ông này không có duyên với Phật Pháp mà sao Ngài lại cho vô Tăng đoàn? Trong khi đó Ngài đã dạy chúng con, Phật Pháp không thể độ được người vô duyên, phải có duyên với Phật Pháp mới độ được”. Đức Phật nói: “Khả năng giới hạn thần thông của Ông chỉ nhìn có tám mươi kiếp. Còn Ta, Ta nhìn tám trăm kiếp, tám ngàn kiếp, Ta nhìn vô vô kiếp cho nên Ta thấy trong một kiếp trước đó ông này là tiều phu. Ông bị cọp rượt, ông leo lên cái cây và kêu lên Phật ơi! cứu con!”. Chỉ khởi Tâm ngay lúc mà sanh tử, lúc mà khổ nhất mà Tâm thành vô cùng, nó ứng.
Vậy tu Phật là Tu cái gì? Tu cái Tâm. Chớ không phải Tu cái Thân, không phải cạo đầu, không phải đắp y, không phải đi cho trang nghiêm nhấc chân lên nhấc chân xuống, ăn cho chững chạc. Giống như người máy robot là bị program phải không? Chúng ta toàn bị program. Lạy Phật Namo tassa là toàn bị program hết, program ở trong cái não chúng ta và Niệm Phật phải như thế này: Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Bây giờ Sư đi tới đạo tràng ở dưới Long Quang, người ta niệm cái gì? Nam Mô A Di Đà Phật, Sư niệm cái gì? Quý vị có nghe không? Nam Mô A Di Đà Phật. Tại sao? đừng chấp chỉ có Namo tassa mới là thành Phật? Mà Đức Phật dạy cho chúng ta “Chớ chấp một điều gì!”
Cái chân lý là vô tham, vô sân, vô si chỉ cho người ta biết tham, sân, si ở đâu để biết cách người ta tiêu diệt. Người đó mới là ông thầy thuốc.
Đức Phật chỉ cho năm anh em Kiều Trần Như, Ngài nói Tứ Diệu Đế: Khổ tập diệt đạo. Đức Phật chỉ cho ông Susima, Ngài nói: “có cái khổ và có cái hết khổ” như vậy là Nhị đế à? Rồi sau đó có một bà giả ôm đứa con lại, khóc với Đức Phật: “Ngài cứu giùm, Ngài là bậc Đại Trí Đại Giác Toàn Năng, Ngài cứu cho con tôi sống lại”. Đức Phật nói: “Hãy đi tìm hạt mè ở trong ngôi nhà nào không có người chết, đem lại đây Ta cứu.”. Thế thì Pháp hạt mè với Pháp Tứ Diệu Đế và Pháp Nhị Đế là sao? Chấp cứng ngắc là chỗ này. Nó tạo cho mình một cái ngã ngủ ngầm, mình trờ thành bị nhồi sọ, trở thành một cái sản phẩm của tất cả những cái này mà mình không biết.
Cho nên Ngài Xá Lợi Phất mới nói: “Con không tin năm căn, năm lực của Đức Phật”. Tại sao? Tại vì con đã có cái của con rồi. Cái đó là con có Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ kiểu như con.
Cho nên quý vị thấy tại sao ở Tuệ Tâm, Sư không chấp nhận cho tụng kinh giống nhau. Ngày nay tụng kinh này, ngày mai tụng kinh khác. Hôm nay tụng Kinh vô ngã tướng, ngày mai tụng kinh Chuyển Pháp Luân, ngày kia tụng kinh Lửa cháy, … cho cái Tâm của chúng ta đừng có dính, tu phải như thế này. Cũng như hồi hướng, có lúc Sư nói “nguyện cho tất cả những phước báu giúp cho chúng con xả bỏ tất cả những pháp ngủ ngầm trong tâm”. Có lúc Sư lại nói “nguyện cho tất cả những phước lành cúng dường thanh tịnh của chúng con làm mối duyên lành để cho chúng con dứt bỏ tham, sân, si”. Rồi tới bữa khác sư nói dứt bỏ phiền não chứ không nói dứt bỏ tham, sân, si, … để cho quý vị đừng có chấp.
Khi quý vị nghe Sư nói: “Nguyện cho những phước lành” lập tức ở trong cái Thức nó nhảy ra cái lưu trữ “là mối duyên lành để chúng con dứt khỏi những điều phiền não trong Tâm”. Thấy mặt mũi phiền não chưa? Tức là dính mắc, hễ dính mắc thì lập tức có cái Ngã, hễ có cái Ngã là lập tức bảo lưu sanh tử, lập tức Tái sanh. Mà mục đích của người đi Tu làm gì? Muốn làm Thiền Sư? Hay muốn làm Đại Sư hay muốn dứt khoát Sanh tử?
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, vào thời Đức Thế Tôn, Bà La Môn lại hỏi Bạch Đức Thế Tôn: “Cư sĩ, tu theo giáo Pháp của Ngài có chứng A La Hán không?”. Đức Phật nói: “hai mươi mốt nam, hai mươi bảy nữ đều chứng A La Hán” có nêu rõ tên trong Kinh. Thế thì Bà La Môn mới hỏi: “Vây thì các vị ấy đã tu Pháp gì?”. Quý vị đọc cho kỹ nhé, không có dính líu tới Tứ Diệu Đế hết! “Vậy các Vị đã tu cái gì mà các Vị chứng A La Hán?”.
Đức Phật nói: “có sáu Pháp: Pháp thứ nhất: có lòng tịnh tín bất động nơi Phật. Thứ nhì: có lòng tịnh tín bất động nơi Pháp. Thứ ba: có lòng tịnh tín bất động nơi Tăng. Thứ tư: có lòng tịnh tiến bất động nơi Giới”. Giới rất là quan trọng. Nếu quý vị không giữ Giới, quý vị có tu ngồi đến Bát định thì cũng vứt đi giống như Ngài Đề Đà Bạt Đa thôi, rớt vào địa ngục. Giới là nền tảng, không giữ Giới không được. Mà giữ Giới được ở nơi mắt, nơi tai, nơi mũi, … thì tự nhiên Ngã nó tiêu diệt.
Mình gặp ai, mình cũng quý giống như Kinh Pháp Hoa nói “Phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát” gặp ai cũng quý. Thế thì tất cả những lộ trình này do đâu? Duyên gì mà tạo ra Duyên sanh? Cái gì tạo ra Duyên? Nói rằng vạn Pháp do Duyên sanh thì cái gì tạo ra Duyên? Tới đây quý vị hiểu rồi chứ gì?
Thế thì do năm Căn va chạm với năm Trần nó mới nảy sinh. Thế thì năm căn, năm trần? Taị sao chúng ta nhìn cái góc này, nhìn cái góc kia hay nhìn cái này không nhìn cái kia. Tai nghe chuyện này, không nghe chuyện kia? Tại sao vậy? Có sự chọn lựa mà. Tất cả đều ngủ ngầm mà ta không biết, ta cứ tưởng hành theo pháp mà toàn là ma không à! Tại sao nhìn cái này, tại sao tôi thích nhìn tượng Phật mà tôi không thích nhìn cái hình sexy? Tại vì tôi tu Phật. Định kiến hả? Tôi muốn nghe Phật, tôi không muốn nhìn chuyện đời nhưng cái hình sexy có dính líu gì đến chuyện ông Phật?
Đấy, phải hiểu rất rõ nếu không thì chúng ta lại vướng chấp thủ vào tôn tượng Phật mà hồi đó tới giờ hai ngàn sáu trăm năm biết hình dáng của Đức Phật ra sao đâu? Đi toàn thế giới, mỗi một chùa có cả hàng trăm bức tượng Phật khác nhau, một chùa thôi, chứ đừng nói nhiều chùa. Chùa Thái Lan ông Phật khác. Chùa Miến Điện ông Phật khác. Bao nhiêu Phật vậy? Phật ở nơi Tâm, Phật tức là Giác, tức là nhận biết rõ trong từng satna cái gì đang sanh ra nơi Tâm. Cái gì? Tham, sân, si đó là Duyên sanh. Làm sao có tham, có sân, có si? Phải có cái Ý! Bây giờ tôi muốn làm cái tượng Phật. Có một cục đá, tôi phải có cái ý muốn làm tượng Phật. Tôi mới đem xuống, tôi đập, đục, đẽo mới thành tượng!
Kinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu nói như thế nào? Ý dẫn đầu các Pháp. Ý tạo Pháp. Ý sanh duyên. Ý do đâu? Do Căn và Trần, nội – ngoại để đưa tới bảo lưu -> rồi dính mắc vì Chấp, chấp cứng ngắc! Chấp rằng các Pháp là có hiện hữu mà quên rằng cái mình chấp đó chỉ là cái nằm trong đầu chứ không phải bên ngoài. Cái hình tượng bên ngoài nó không dính gì hết. Người ta chửi mình, người ta đi mất tiêu rồi. Ba ngày sau mình vẫn buồn, tức là mình buồn cái nằm trong não. Thế thì làm cho mình dính mắc, dính mắc phát sinh ra Ngã. Nếu mình vô minh không hiểu được thì mình khổ đau. Truy tận gốc của khổ đau thì thấy nó do Vô Minh, Tham Ái.
Bởi vậy, Đức Phật ví Tâm như miếng đất, miếng đất hoang. Nghiệp như hạt giống. Hạt giống bỏ xuống miếng đất hoang. Nó không lên nổi, nếu không có Tham Ái. Tham ái đó là nước tưới tẩm vào để cho cái Nghiệp trổ trên mảnh đất Tâm.
Hiểu được như vậy, khi chúng ta ngồi thiền những hiện tượng gì phát sinh đều biết, ngứa đều biết, khó chịu đều biết, ký ức trồi lên đều biết, giận, buồn, thương đều biết, tâm lăn xăng đều biết. Cái đó thuộc về Pháp hành. Nhưng mà hễ vô minh thì chấp rằng cái đó là có thật, quá khứ là có thật, cái đau buồn quá khứ là có thật. Cái mong cầu tương lai, tôi mong cầu tôi chứng A La Hán, mong cầu tôi chứng Tư Đà Hàm, … là mong cầu tương lai. Tương lai, quá khứ thì đúng là Vô minh, mà vô minh tức là bảo lưu sanh tử tiếp tục tái sanh.
Tại vì muốn có tương lai thì phải tư niệm thực, tức là mong cầu có cái Thân để làm chuyện tốt hơn, để đỡ khổ hơn bây giờ. Tức là mong cầu tương lai là phải có Thân, mong cầu mang cái Thân người hoặc Thân là Chư Thiên để tu tập cho mau thành thì rớt vào Tứ Diệu Đế. Đây là chỗ ngủ ngầm mà không biết. Đừng sợ vô minh, hễ có vô minh thì mới thấy được cái đau khổ. Vì có té thì mới biết đau, không té làm sao biết đau. Cho nên đừng sợ ngồi Thiền, thấy nó nổi sân cứ nhìn cái sân đó rồi mới hiểu nó (từ từ sẽ hướng dẫn).
Trong Kinh Lăng Nghiêm của Kinh Bắc Tông cũng nói y như vậy. Từ nơi sáu căn mà chúng sanh sanh tử luân hồi. Từ nơi sáu căn mà Chư Phật sanh ra, trưởng dưỡng và thành tựu.
Trong Kinh Hoa Nghiêm mở đầu “Tâm dẫn đầu các Pháp, Tâm tạo Pháp”.
Kinh Pháp Cú cũng nói y như thế “Ý dẫn đầu các Pháp”.
Kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Thế Tôn nói rất rõ “Tất cả đều từ nơi Thân, Thọ, Tâm Pháp”. Mà Thân, Thọ, Tâm Pháp là cái gì? Xoay cho cùng thì cái Pháp đó là Pháp sanh diệt mà mình dính mắc, mình chấp rằng nó thường, cho nên mình đau khổ.
Pháp nó không có thực, nó có thể chuyển đổi giữa vật thể và năng lượng. Hết vui tới buồn, hết buồn tới vui. Nếu minh buồn hoài thì đưa vào nhà thương điên mà mình vui hoài cũng đưa vào nhà thương điên, chịu không nỗi đâu.
Thế người Tu thiền quan trọng để làm gì? Thấy sự sanh diệt của các Pháp, chứ không phải thấy các Pháp. Các Pháp nó lưu trữ trong não. Mà nó sanh diệt ở đâu? Không phải ở bên ngoài kia: cái cây nó rụng mà mình nói nó sanh diệt. Mà là ở trong não! Một satna vui, một satna buồn phải nhận biết liền. Lúc nào sanh? Lúc nào diệt?
Trong Kinh Tương Ứng phẩm Một Pháp, Đức Thế Tôn dạy rất rõ: “Này các Chư Hiền Giả, đây là các Pháp để giải thoát. Hãy quán chiếu trong Tâm. Nếu tham sanh biết Tâm tham vừa sanh. Nếu Tâm tham diệt biết Tâm tham vừa diệt. Nắm cho kỹ tham, sân, si sanh khởi. Hễ nó sanh biết nó sanh, nó diệt biết nó diệt. Mà nếu cứ bắt theo nó được thì Đức Phật nói: “Xong việc lớn, giải thoát!”. Tại vì khi bắt được nó rồi thì thấy bóng trăng dưới đáy nước” mà trong Kinh Kim Cang nói rất rõ: “Các Pháp đều như mộng huyễn ảo ảnh”.
Nhưng tới cái giai đoạn đó mình mới thấy, còn bây giờ mình nói cái miệng thôi! Ai mắng chửi là giận, vậy làm sao mà nói như mộng huyễn được? Mộng huyễn tại sao giận? Còn không cho ăn thì hờn. Ăn không ngon thì buồn. Kêu vô ngồi thiền, kêu vô nhập thất luôn đi thì nói “không”, con muốn nới lỏng, không muốn miên mật. Thiền sinh muốn theo cái kiểu của họ.
Họ không muốn phương pháp mà Sư chỉ. Sư đã chỉ: “đóng lại sáu căn thì thành tựu”. Nhưng thiền sinh lại nói: – “Không, Sư cho con nới lỏng thôi, con không muốn miên mật, tức là vô thất một chút, ra thất một chút”. Thôi thì thiền sinh muốn kiểu gì thì sư chìu theo chứ biết làm sao? Tại sao vậy? Tại sao Sư chìu theo? Sư không cho thì học cũng làm theo ý họ. Vậy sao Sư phải bắt họ khổ đau? Phải không? Bây giờ họ muốn giảm một nữa khổ đau thôi, 50%. Thì sư cho họ 50% thôi. Mình thấy rõ, mình có trí tuệ. Con muốn khổ đau 50% thì con sanh tử 50%.
Còn bây giờ bảo khuyên họ nhập thất bốn tháng nay thì họ thành công rồi, bao nhiêu cái quý vị đã thấy nó thành tựu. Con ráng nữa đi, 15 ngày nữa thôi, con đóng cửa lại, con đóng hết năm căn. Sư phụ ở đây, Sư phụ hộ thất cho để cho con thành tựu. Cái nhiệm vụ của Sư ở đây chỉ có bấy nhiêu thôi, giúp cho con thành tựu. Thiền sinh nói “không, Sư cho con nới lỏng” thì sư chịu thôi chứ biết sao! Vì không cho thì họ cũng tự ra khỏi thất. Mà nếu cái Thân ở trong thất thì cái Tâm của họ cũng đi ra khỏi thất. Cho nên mình hiểu ở đây là không có vô minh và làm cho nó bớt khổ đau.
Kinh nào cũng nói thế! Nhưng mà Kinh Bẹ Chuối quan trọng lắm quý vị. Lột vỏ chuối ra, quý vị cứ hằng ngày lột ra, lột một chút, một chút, tất cả các cảm xúc, các thọ, các tưởng, các hành, các thức, lột ra từ từ. ….. Cái Tâm đó là Tâm Chơn Không. Đức Phật nói: ‘Tâm Chơn Không chứa hết tất cả rác, chứa hết tất cả hương thơm đồng cỏ lúa, chứa người thiện, chứa người ác, không có phân biệt”.
Khi mà quý vị bị người ta chửi mà vẫn cảm ơn như Ngài Phú Lâu Na. Bạch Đức Thế Tôn: “Nếu người ta chửi con, con cảm ơn vì người ta chưa đánh con”. Nếu người ta đánh ông thì sao? – “Con cám ơn vì người ta chưa có đâm con”. Nếu người ta đâm ông thì sao? – Bạch Đức Thế Tôn, con cảm ơn người ta vì người ta đâm con mà chưa giết con. Nếu như người ta giết ông thì sao? – Bạch Đức Thế Tôn, con cảm ơn người ta vì người ta đã giải thoát cho con khỏi cái đau khổ của cái thân này nơi chốn trần gian.
Khi đi xin Hoằng Pháp ở nơi biên địa, Ngài lên trình Đức Thế Tôn phải trả lời như vậy đó, Đức Thế Tôn mới cho đi. Cho nên quý vị đừng có tưởng là dễ dàng là Sư cho đi. Đi ra họ “đánh” một cái là chạy về khóc lóc mất công, phải không?
Lộ trình này chúng ta học chi tiết từng cái một và tất cả nhũng cái này đều đưa vào 37 Phẩm trợ đạo, Thập nhị nhân duyên, Tứ Diệu Đế, nhất là Thất Bồ Đề Phần, lưu trữ, phân tích, nói rất rõ. Sư sẽ nói cho rõ Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo thực chất là cái gì? Rất nhiều người tu Bát Chánh Đạo. Vậy hỏi có bao nhiêu vị chứng Thánh? Mình phải hỏi lại và Đức Phật nói lại: “Ta tu ba A tăng kỳ kiếp”. Bà La Môn lại hỏi: “Ngài chỉ nói ba a Tăng kỳ kiếp là gì?” – Là đếm không nỗi. Một kiếp là có sanh có tử. Một ngày chúng ta có hàng tỷ cái tham, sân, si, sanh diệt, sanh diệt. Mà nếu chúng ta tu cái tham, cái sân, cái si, vô tham, vô sân, vô si là xong việc rồi. Chẳng cần phải tụng kinh, chẳng cần phái ngồi thiền. Nhấc chân lên con biết nhận rõ đó là quán thân. Quán thân trên thân từ đầu tới chân, các cử động đều sanh khởi là có tham, có sân, có si đầy đủ hết. Nếu mình bước đúng khoan khoái thì tham, bước nhầm cái lổ ổ gà thì sân nổi lên. Cho nên khi đi khất thực, thấy bãi sình cũng phải bước vào. Quý vị không trải nghiệm, quý vị không biết được. Thấy vũng nước cũng bước vào, không biết dưới đó sâu hay không? Có cái gì dưới hay không? Nhưng cũng phải bước vào. Nếu gặp cục đá nó sâu quá thì cái Tâm mình sanh khởi, quán cái Tâm. Quán cái Tâm để làm gì? Để nhận biết cái Tâm đó là tham, là sân, là si. Tu cái đó thôi. Phật chỉ tu cái đó thôi mà Ngài chứng thành Phật. Còn tất cả chỉ là phương tiện.
Trước khi Ngài ngồi sáu năm ở trong hang động. Ngài đã tu thiền với hai vị Đại sư và Ngài đạt được Tứ Thiền, Bát Định, Phi phi tưởng xứ nhưng Ngài biết rằng cái Thiền đó không giải quyết được vấn đề sanh tử. Cuối cùng Ngài phải đi vào trong hang động để Ngài tìm ra cái của Ngài và khi Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ đề 49 ngày, đêm canh ba. Ngài thấy rất rõ: “Ta đã thấy mặt mũi của cái nghiệp và Ngài định nghĩa cái Nghiệp là một hành động đã được hoàn tất, có tác ý và lặp đi lặp lai. Vì nó có tác ý cho nên nó tạo ra duyên. Nếu không ý thì không tạo duyên. Cho nên Ngài nói khi tu, vắng bặt tất cả các ý, một ý không sanh thì duyên không có. Mà duyên không có thì sanh tử không còn. Tuần tự, từ từ, từng giai đoạn.
Con xin tri ân công đức của Sư đã giảng pháp cho con bớt vô minh